Avodart

Avodart Dược lý

dutasteride

Nhà sản xuất:

GlaxoSmithKline
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược lý
Dược lực học
Dutasteride là chất ức chế kép 5 alpha-reductase. Dutasteride ức chế isoenzym 5 alpha-reductase cả loại 1 và loại 2 là những enzym chịu trách nhiệm biến đổi testosteron thành dihydrotestosteron (DHT). DHT là androgen đóng vai trò chính trong sự tăng sản mô tuyến tiền liệt.
Hiệu quả trên DHT/Testosterone
Khi dùng AVODART hàng ngày, tác dụng tối đa làm giảm DHT phụ thuộc vào liều dùng và được quan sát thấy trong 1-2 tuần dùng thuốc. Sau 1 tuần và 2 tuần dùng AVODART với liều 0,5 mg mỗi ngày, trung vị nồng độ của DHT trong huyết thanh giảm tương ứng khoảng 85% và 90%.
Những bệnh nhân BPH dùng dutasteride mỗi ngày 0,5 mg thì trung vị giảm của DHT là 94% ở 1 năm và 93% ở 2 năm, trung vị tăng của lượng testosteron trong huyết thanh là 19% ở cả 1 và 2 năm. Điều này là hệ quả được dự đoán trước của tác dụng ức chế 5 alpha-reductase và không gây ra bất kỳ tác dụng không mong muốn đã biết nào.
Dược động học
Hấp thu
Viên nang mềm gelatin dutasteride được dùng đường uống. Sau khi uống liều đơn 0,5 mg, nồng độ đỉnh trong huyết tương của dutasteride xuất hiện sau 1 đến 3 giờ.
Sinh khả dụng tuyệt đối ở người khoảng 60% so với truyền tĩnh mạch trong 2 giờ. Sinh khả dụng của dutasteride không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.
Phân bố
Số liệu dược động học sau khi uống liều đơn và liều nhắc lại cho thấy dutasteride có thể tích phân bố lớn (300 đến 500 L). Dutasteride liên kết cao với protein huyết tương (> 99,5%).
Sau khi uống liều hàng ngày, nồng độ dutasteride trong huyết thanh đạt được 65% nồng độ ổn định sau 1 tháng và khoảng 90% sau 3 tháng. Nồng độ ổn định trong huyết thanh (Css) khoảng 40 nanogram/mL đạt được sau 6 tháng dùng thuốc với liều 0,5 mg một lần mỗi ngày. Tương tự như trong huyết thanh, nồng độ dutasteride trong tinh dịch đạt được trạng thái ổn định sau 6 tháng. Sau 52 tuần điều trị, nồng độ dutasteride trong tinh dịch trung bình là 3,4 nanogram/mL (0,4 đến 14 nanogram/mL). Dutasteride từ huyết thanh đi vào tinh dịch trung bình là 11,5%.
Biến đổi sinh học
In vitro, dutasteride được chuyển hóa bởi isoenzym CYP3A4 của cytochrom P450 ở người thành 2 chất chuyển hóa phụ dạng monohydroxylate, nhưng không bị chuyển hóa bởi CYP1A2, CY2A6, CYP2E1, CYP2C8, CYP2C9, CYP2C19, CYP2B6 hay CYP2D6.
Trong huyết thanh người, sau những liều để đạt được sự ổn định, đánh giá bằng phương pháp khối phổ đã phát hiện được dutasteride dưới dạng không biến đổi, 3 chất chuyển hóa chính (4’-hydroxydutasteride, 1,2-dihydrodutasteride và 6-hydroxydutasteride) và 2 chất chuyển hóa phụ (6,4’-dihydroxydutasteride và 15-hydroxydutasteride). Cũng phát hiện được 5 chất chuyển hóa của dutasteride trong huyết thanh người ở huyết thanh chuột cống, tuy nhiên vẫn chưa biết hóa học lập thể của nhóm hydroxyl gắn tại vị trí 6 và 15 trong chất chuyển hóa ở người và chuột cống.
Thải trừ
Dutasteride được chuyển hóa rộng rãi. Sau khi uống dutasteride 0,5 mg/ngày để đạt được nồng độ ổn định ở người, 1,0% đến 15,4% (trung bình 5,4%) liều uống được bài tiết vào phân dưới dạng dutasteride. Phần còn lại của liều được bài tiết vào phân dưới dạng 4 chất chuyển hóa chính với tỷ lệ là 39%, 21%, 7% và 7% đối với mỗi chất liên quan đến thuốc và 6 chất chuyển hóa phụ (dưới 5% mỗi chất).
Chỉ một lượng rất nhỏ dutasteride không đổi (dưới 0,1% liều dùng) được tìm thấy trong nước tiểu người.
Với nồng độ điều trị, thời gian bán thải sau cùng của dutasteride là 3 đến 5 tuần.
Vẫn xác định được nồng độ dutasteride trong huyết thanh (lớn hơn 0,1 ng/mL) đến tận 4-6 tháng sau khi ngừng điều trị.
Tuyến tính/không tuyến tính
Dược động học của dutasteride có thể được mô tả như là quá trình hấp thu bậc 1 và hai đường thải trừ song song, một đường bão hòa (phụ thuộc nồng độ) và một không bão hòa (không phụ thuộc vào nồng độ).
Với nồng độ thấp trong huyết thanh (dưới 3 nanogram/mL), dutasteride nhanh chóng được thải trừ bằng cả đường phụ thuộc nồng độ và không phụ thuộc nồng độ. Những liều đơn 5 mg hay thấp hơn cho thấy bằng chứng thải trừ nhanh và thời gian bán thải ngắn từ 3 đến 9 ngày.
Với nồng độ trong huyết thanh cao hơn 3 nanogram/mL, dutasteride được thải trừ chậm (0,35 đến 0,58 L/giờ) chủ yếu bằng thải trừ tuyến tính, không bão hòa với thời gian bán thải sau cùng 3 đến 5 tuần. Ở nồng độ điều trị, sau khi dùng liều nhắc lại 0,5 mg/ngày, thanh thải chậm hơn chiếm ưu thế và thanh thải toàn thân là tuyến tính và không phụ thuộc nồng độ.
Người cao tuổi
Dược động học và dược lực học của dutasteride đã được đánh giá trên 36 người đàn ông khỏe mạnh ở độ tuổi từ 24 đến 87 sử dụng đơn liều 5 mg dutasteride. Phơi nhiễm của dutasteride, thể hiện bằng AUC và Cmax, không khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa các nhóm tuổi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian bán thải ở nhóm người 50 đến 69 tuổi so với nhóm người trên 70 tuổi, là độ tuổi thường gặp BPH. Không quan sát thấy khác biệt về hiệu quả của thuốc khi đo lường bởi sự giảm DHT giữa các nhóm tuổi. Kết quả cho thấy không cần điều chỉnh liều dutasteride theo tuổi.
Suy thận
Chưa nghiên cứu ảnh hưởng của suy thận đến dược động học của dutasteride. Tuy nhiên, đã phát hiện thấy dưới 0,1% liều uống 0,5 mg dutasteride ở trạng thái ổn định trong nước tiểu người, do đó không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận.
Suy gan
Chưa nghiên cứu ảnh hưởng của suy gan đến dược động học của dutasteride (xem phần Cảnh báo và thận trọng).
Các nghiên cứu lâm sàng
Liệu pháp đơn trị liệu AVODART đối với BPH
Dutasteride 0,5 mg/ngày hoặc giả dược đã được đánh giá trên 4.325 bệnh nhân nam có tuyến tiền liệt phì đại (thể tích lớn hơn 30 cc) trong ba nghiên cứu mù đôi có đối chứng với giả dược, đa trung tâm kéo dài 2 năm về hiệu quả chính.
Trên nam giới bị BPH, AVODART điều trị và ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh bằng cách làm giảm cả hai nguy cơ là bí tiểu cấp tính (AUR-Acute Urinary Retention) và nhu cầu can thiệp bằng phẫu thuật (SI-Surgical intervention) và bằng cách cải thiện có ý nghĩa thống kê các triệu chứng đường niệu dưới (LUTS-Lower Urinary Tract Syptoms), lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax) và thể tích tuyến tiền liệt so với giả dược. Những cải thiện về LUTS, Qmax và thể tích tuyến tiền liệt đã được ghi nhận trong suốt 24 tháng, và LUTS và Qmax vẫn tiếp tục được cải thiện trong 2 năm tiếp theo trong các nghiên cứu mở rộng nhãn mở. Ngoài ra, sự giảm thể tích tuyến tiền liệt cũng được duy trì liên tục trong hơn 2 năm trong các nghiên cứu mở rộng nhãn mở.
Liệu pháp phối hợp AVODART và tamsulosin đối với BPH
AVODART 0,5 mg/ngày, tamsulosin 0,4 mg/ngày hoặc kết hợp của AVODART 0,5 mg với tamsulosin 0,4 mg được đánh giá trên 4.844 đối tượng nghiên cứu nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt (thể tích lớn hơn hoặc bằng 30 cc) trong một nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, nhóm song song kéo dài hơn 4 năm. Tiêu chí chính về hiệu quả tại thời điểm sau 2 năm điều trị là mức độ cải thiện so với ban đầu trong thang điểm triệu chứng tuyến tiền liệt quốc tế (IPSS-International Prostate Symptom Score).
Sau 2 năm điều trị, liệu pháp phối hợp đã cho thấy sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh có ý nghĩa thống kê so với ban đầu trong thang điểm triệu chứng là -6,2 đơn vị. Mức cải thiện trung bình đã được hiệu chỉnh của thang điểm triệu chứng được quan sát trên từng trị liệu là -4,9 đơn vị với AVODART và -4,3 đơn vị với tamsulosin. Mức độ cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh của lưu lượng nước tiểu so với ban đầu là 2,4 mL/giây với liệu pháp phối hợp, 1,9 mL/giây với AVODART và 0,9 mL/giây với tamsulosin. Mức độ cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh của các chỉ số ảnh hưởng BPH so với ban đầu là -2,1 với liệu pháp phối hợp, -1,7 với AVODART và -1,5 với tamsulosin.
Sự giảm thể tích tuyến tiền liệt toàn bộ và thể tích vùng chuyển tiếp sau 2 năm điều trị bằng liệu pháp phối hợp là có ý nghĩa thống kê so với đơn trị liệu tamsulosin.
Tiêu chí chính về hiệu quả tại thời điểm sau 4 năm điều trị là thời gian đến khi xảy ra biến cố đầu tiên của bí tiểu cấp tính (AUR) hoặc phẫu thuật liên quan đến BPH. Sau 4 năm điều trị, liệu pháp phối hợp làm giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê nguy cơ bí tiểu cấp tính (AUR) hoặc phẫu thuật liên quan đến BPH (giảm 65,8% nguy cơ, p<0,001 [95% CI 54,7% đến 74,1%]) so với đơn trị liệu tamsulosin. Tỉ lệ mắc bí tiểu cấp tính hoặc phẫu thuật liên quan đến BPH ở năm thứ 4 là 4,2% đối với liệu pháp phối hợp và 11,9% đối với tamsulosin (p<0,001). So với AVODART đơn trị liệu, liệu pháp phối hợp làm giảm nguy cơ bí tiểu cấp tính (AUR) hoặc phẫu thuật liên quan đến BPH khoảng 19,6%; sự khác biệt giữa các nhóm điều trị không đáng kể (p=0,18 [95% CI -10,9% đến 41,7%]). Tỉ lệ mắc bí tiểu cấp tính hoặc phẫu thuật liên quan đến BPH ở năm thứ 4 là 4,2% đối với liệu pháp phối hợp và 5,2% đối với AVODART.
Sự tiến triển trên lâm sàng được định nghĩa là một tổ hợp các triệu chứng xấu đi, (IPSS), và các biến cố liên quan đến BPH của bí tiểu cấp tính, tiểu không tự chủ, nhiễm khuẩn niệu (UTI), và suy thận. Sau 4 năm, liệu pháp phối hợp có liên quan đến tốc độ chậm tiến triển trên lâm sàng đáng kể có ý nghĩa thống kê so với tamsulosin (p<0,001; 44,1% giảm nguy cơ [95% CI : 33,6% đến 53,0%]). Tốc độ tiến triển trên lâm sàng đối với liệu pháp phối hợp, tamsulosin, và AVODART lần lượt là 12,6%; 21,5% và 17,8%.
Sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh có ý nghĩa thống kê trong thang điểm triệu chứng (IPSS) so với ban đầu được duy trì từ năm 2 đến năm 4. Tại thời điểm 4 năm, sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong thang điểm triệu chứng là -6,3 đơn vị đối với liệu pháp phối hợp, -5,3 đơn vị đối với AVODART đơn trị liệu và -3,8 đơn vị đối với tamsulosin đơn trị liệu.
Sau 4 năm điều trị, sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong lưu lượng nước tiểu (Qmax) so với ban đầu là 2,4 mL/giây đối với liệu pháp phối hợp, 2,0 mL/giây đối với AVODART đơn trị liệu và 0,7 mL/giây đối với tamsulosin đơn trị liệu. Cứ mỗi 6 tháng đánh giá một lần, từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 48 thì liệu pháp phối hợp cho sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong Qmax so với ban đầu lớn hơn đáng kể có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với tamsulosin. So với AVODART thì khi dùng liệu pháp phối hợp, sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong Qmax so với ban đầu không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,050 ở tháng thứ 48).
Đối với sự cải thiện các thông số về sức khỏe Bll và tình trạng sức khỏe liên quan đến BPH tại 4 năm, liệu pháp phối hợp tốt hơn đáng kể (p<0,001) so với tamsulosin đơn trị liệu và AVODART đơn trị liệu. Sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong Bll so với ban đầu là -2,2 đơn vị đối với liệu pháp phối hợp, -1,8 đơn vị đối với AVODART và -1,2 đơn vị đối với tamsulosin. Sự cải thiện trung bình đã hiệu chỉnh trong tình trạng sức khỏe liên quan đến BPH so với ban đầu là -1,5 đơn vị đối với liệu pháp phối hợp, -1,3 đơn vị đối với AVODART và -1,1 đơn vị đối với tamsulosin.
Đối với thể tích tuyến tiền liệt toàn bộ và thể tích vùng chuyển tiếp sau 4 năm điều trị, liệu pháp phối hợp làm giảm đáng kể có ý nghĩa thống kê so với tamsulosin đơn trị liệu.
Suy tim
Trong một nghiên cứu kéo dài 4 năm so sánh AVODART dùng đồng thời với tamsulosin và dutasteride đơn trị liệu hoặc tamsulosin đơn trị liệu ở nam giới bị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (nghiên cứu CombAT), tỉ lệ mắc suy tim ở nhóm dùng liệu pháp phối hợp (14/1.610, 0,9%) cao hơn cả hai nhóm dùng đơn trị liệu: AVODART, 4/1.623 (0,2%) và tamsulosin, 10/1.611 (0,6%). Ước tính nguy cơ tương đối đối với thời gian đến khi có biến cố suy tim đầu tiên là 3,57 [95% CI 1,17 ; 10,8] đối với liệu pháp phối hợp so với đơn trị liệu AVODART và 1,36 [95% CI 0,61; 3,07] so với đơn trị liệu tamsulosin.
Trong một nghiên cứu hóa dự phòng kéo dài 4 năm so sánh giả dược và AVODART ở 8.231 nam giới tuổi từ 50 đến 75 với kết quả sinh thiết ung thư tuyến tiền liệt âm tính trước đó và PSA ban đầu trong khoảng 2,5 ng/mL và 10,0 ng/mL (nghiên cứu REDUCE), tỉ lệ mắc suy tim cao hơn ở những đối tượng dùng AVODART (30/4.105; 0,7%) so với giả dược (16/4.126; 0,4%) về một nguy cơ tương đối ước tính cho thời điểm của biến cố suy tim đầu tiên là 1,91 [95% CI 1,04; 3,50]. Trong một phân tích post-hoc sử dụng thuốc chẹn alpha đồng thời, tỉ lệ mắc suy tim cao hơn ở những đối tượng dùng AVODART và thuốc chẹn alpha đồng thời (12/1.152; 1,0%) so với những đối tượng không dùng AVODART và thuốc chẹn alpha đồng thời: AVODART và không dùng thuốc chẹn alpha (18/2953; 0,6%), giả dược và thuốc chẹn alpha (1/1.399; <0,1%), giả dược và không dùng thuốc chẹn alpha (15/2.727; 0,6%). Vẫn chưa thiết lập được mối liên hệ nhân quả nào giữa AVODART (đơn trị liệu hay phối hợp với thuốc chẹn alpha) và suy tim (xem Cảnh báo và thận trọng).
Ung thư tuyến tiền liệt và khối u cấp độ cao (high grade tumor)
Trong một nghiên cứu kéo dài 4 năm so sánh giả dược và AVODART ở 8.231 nam giới tuổi từ 50 đến 75, với kết quả sinh thiết ung thư tuyến tiền liệt âm tính trước đó và PSA ban đầu trong khoảng 2,5 ng/mL và 10,0 ng/mL (nghiên cứu REDUCE), 6.706 đối tượng có sẵn dữ liệu sinh thiết tuyến tiền liệt bằng kim cho phân tích xác định điểm Gleason. Có 1.517 đối tượng được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt trong nghiên cứu. Phần lớn ung thư tuyến tiền liệt phát hiện bằng sinh thiết ở cả hai nhóm được chẩn đoán là mức độ thấp (Gleason 5-6). Không có khác biệt trong tỉ lệ mắc ung thư có Gleason 7-10 (p=0,81).
Tỉ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt có Gleason 8-10 cao hơn ở nhóm dùng AVODART (n=29; 0,9%) so với nhóm dùng giả dược (n=19; 0,6%) (p=0,15). Trong năm 1-2, số đối tượng bị ung thư Gleason 8-10 ở nhóm dùng AVODART (n=17; 0,5%) là tương tự ở nhóm dùng giả dược (n=18; 0,5%). Trong năm 3-4, số đối tượng được chẩn đoán ung thư Gleason 8-10 ở nhóm dùng AVODART (n=12; 0,5%) nhiều hơn so với nhóm dùng giả dược (n=1; <0,1%) (p=0,0035). Không có sẵn dữ liệu về hiệu quả của AVODART tiếp theo sau 4 năm ở nam giới có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Tỉ lệ phần trăm đối tượng được chẩn đoán ung thư Gleason 8-10 là nhất quán trong khoảng thời gian nghiên cứu (năm 1-2 và năm 3-4) ở nhóm dùng AVODART (0,5% ở mỗi khoảng thời gian), trong khi ở nhóm dùng giả dược, tỉ lệ phần trăm đối tượng được chẩn đoán ung thư Gleason 8-10 là thấp hơn trong năm 3-4 (<0,1%) so với 0,5% ở năm 1-2 ). Trong một nghiên cứu BPH kéo dài 4 năm (CombAT) không có sinh thiết bắt buộc theo đề cương và tất cả chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt đều dựa trên sinh thiết để tìm nguyên nhân, tỉ lệ ung thư có Gleason 8-10 là (n=8; 0,5%) đối với AVODART, (n=11; 0,7%) đối với tamsulosin và (n=5; 0,3%) đối với liệu pháp phối hợp (xem Cảnh báo và thận trọng).
Các kết quả của một nghiên cứu dịch tễ học dựa trên quy mô dân số (n=174.895) về các kiểu hình thực hành cộng đồng cho thấy việc sử dụng thuốc 5-ARIs để điều trị BPH/LUTS không liên quan đến nguy cơ tăng tử vong do ung thư tuyến tiền liệt (tỷ số nguy cơ đã hiệu chỉnh so với các nguy cơ cạnh tranh: 0,85; 95% CI 0,72; 1,01) khi so sánh với việc sử dụng các thuốc chẹn alpha. Các kết quả tương tự đã được báo cáo trong một nghiên cứu dịch tễ học (n=13.892) ở nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt ở Anh (tỷ số nguy cơ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt đã hiệu chỉnh đối với những người sử dụng thuốc 5-ARIs so với những người không dùng thuốc: 0,86; 95% CI 0,69; 1,06). Một nghiên cứu tiến cứu đoàn hệ, nghiên cứu theo dõi của chuyên gia y tế (n=38.058) cũng cho thấy việc sử dụng thuốc 5-ARIs không liên quan đến tử vong do ung thư tuyến tiền liệt gây ra (tỷ lệ nguy cơ đã hiệu chỉnh: 0,99; 95% CI 0,58; 1,69).
Ảnh hưởng lên kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) và phát hiện ung thư tuyến tiền liệt
Trong nghiên cứu REDUCE, các bệnh nhân có kết quả sinh thiết ung thư tuyến tiền liệt âm tính trước đó và PSA ban đầu trong khoảng 2,5 ng/mL và 10,0 ng/mL, điều trị với AVODART làm giảm PSA huyết thanh trung bình khoảng 50% sau 6 tháng với một sự biến thiên lớn (độ lệch chuẩn 30%) giữa các bệnh nhân. Sự sụt giảm PSA quan sát thấy tại thời điểm 6 tháng là tương tự ở nam giới có hoặc không phát triển ung thư tuyến tiền liệt phát hiện được bằng sinh thiết trong suốt nghiên cứu (xem Cảnh báo và thận trọng).
Tỉ lệ mắc ung thư vú
Trong các nghiên cứu lâm sàng đơn trị liệu BPH, cho 3.374 bệnh nhân nhiều năm phơi nhiễm với AVODART, có 2 trường hợp bị ung thư vú ở nam giới được báo cáo trong nhóm bệnh nhân điều trị với AVODART, 1 trường hợp sau 10 tuần, 1 trường hợp sau 11 tháng điều trị và có 1 trường hợp ở bệnh nhân dùng giả dược. Trong các nghiên cứu lâm sàng tiếp theo đối với BPH và 8.231 nam giới tuổi từ 50 đến 75, với kết quả sinh thiết ung thư tuyến tiền liệt âm tính trước đó và PSA ban đầu trong khoảng 2,5 ng/mL và 10,0 ng/mL, cho 17.489 bệnh nhân nhiều năm phơi nhiễm với AVODART và 5.027 bệnh nhân nhiều năm phơi nhiễm với liệu pháp phối hợp AVODART và tamsulosin, không có trường hợp ung thư vú nào được báo cáo trong cả 2 nhóm điều trị.
Hai nghiên cứu bệnh-chứng, dịch tễ học, trong đó một nghiên cứu tiến hành trên một cơ sở dữ liệu y tế ở Mỹ (nhóm bệnh ung thư vú n=339 và nhóm chứng n=6.780) và một nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu y tế ở Anh (nhóm bệnh ung thư vú n=398 và nhóm chứng n=3.930) đã cho thấy không gia tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở nam giới khi sử dụng thuốc 5-ARIs (xem Cảnh báo và thận trọng). Các kết quả từ nghiên cứu đầu tiên đã không xác định được mối liên hệ rõ ràng đối với ung thư vú ở nam giới (nguy cơ tương đối khi sử dụng thuốc ≥ 1 năm so với < 1 năm trước khi chẩn đoán ung thư vú: 0,70: 95% CI 0,34; 1,45). Trong nghiên cứu thứ hai, tỷ số chênh được ước tính đối với ung thư vú có liên quan đến việc sử dụng so với không sử dụng thuốc 5-ARIs là 1,08: 95% CI 0,62; 1,87).
Mối liên hệ giữa sử dụng lâu dài dutasteride và ung thư vú ở nam chưa được xác định.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Đã quan sát thấy các tác dụng không đặc hiệu, có hồi phục trên hệ thần kinh khi dùng thuốc ở liều vượt xa liều dùng trên lâm sàng trên chuột (gấp 425 lần) và trên chó (gấp 315 lần).
Những phát hiện về độc tính khác cũng phù hợp với những nghiên cứu dược học về chất ức chế 5 alpha-reductase. Độc tính này bao gồm ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản phụ ở chuột và chó đực và giảm có hồi phục khả năng sinh sản ở chuột đực. Những độc tính này được xem như không có liên quan đến lâm sàng do không ảnh hưởng đến sự phát triển, nồng độ và di chuyển của tinh dịch. Đã thấy hiện tượng nữ hóa cơ quan sinh dục ngoài ở bào thai đực ở chuột và thỏ cái dùng dutasteride đường uống. Tuy nhiên, không thấy có độc tính trên mẹ và bào thai khi tiêm tĩnh mạch dutasteride ở khỉ Rhesus mang thai với liều tới 2.010 nanogram/con/ngày trong suốt quá trình phát triển phôi bào thai. Liều này tương đương ít nhất 186 lần (nanogram/kg cân nặng cơ bản) liều hàng ngày có khả năng đạt tối đa ở phụ nữ 50 kg khi tiếp xúc với 5 mL tinh dịch (với giả thiết hấp thụ 100%) từ đàn ông đang trị liệu bằng dutasteride.
Dutasteride không gây độc tính gen theo như thử nghiệm về biến đổi gen trên diện rộng.
Trong thử nghiệm trên chuột về khả năng gây ung thư, có sự tăng u tế bào kẽ lành tính ở tinh hoàn khi dùng liều cao (gấp 158 lần liều dùng trên lâm sàng). Tuy nhiên, cơ chế nội tiết được xem là nguyên nhân gây ra tăng sản và u tuyến tế bào kẽ ở chuột lại không liên quan ở người. Không thấy có ảnh hưởng trên u bướu trên lâm sàng trong các nghiên cứu trên chuột về khả năng gây ung thư.
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Đăng nhập
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Đăng nhập