Zoladex

Zoladex Dược lực học

goserelin

Nhà sản xuất:

AstraZeneca
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược lực học
Nhóm dược lý: Thuốc chủ vận hormon giải phóng Gonadotropin.
Mã ATC: L02AE03.
Zoladex (D-Ser (But)6 Azgly10 LHRH) là một hoạt chất tổng hợp có cấu trúc tương tự với LHRH tự nhiên. Sử dụng Zoladex lâu dài dẫn đến ức chế sự tiết LH tuyến yên do đó làm giảm nồng độ testosterone trong huyết thanh ở nam giới hay giảm nồng độ oestradiol từ buồng trứng. Hiệu quả này có thể phục hồi khi ngưng điều trị. Zoladex cũng giống như các chất chủ vận LHRH, có thể làm tăng tạm thời nồng độ testosterone huyết thanh ở nam giới và oestradiol huyết thanh ở nữ giới lúc bắt đầu điều trị.
Ung thư tiền liệt tuyến
Ở nam giới, vào khoảng 21 ngày sau liều tiêm đầu tiên, nồng độ testosterone hạ thấp đến mức tương đương với người phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn và tiếp tục bị ức chế khi điều trị tiếp tục mỗi 28 ngày (Zoldex 3,6 mg) hoặc mỗi 12 tuần (Zoladex 10,8 mg). Sự ức chế này dẫn đến thoái triển u tiền liệt tuyến và cải thiện triệu chứng ở phần lớn bệnh nhân.
Trong điều trị bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến di căn, Zoladex cho thấy mang lại hiệu quả sống còn tương đương với người được phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh.
Trong một phân tích cộng gộp của hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm soát so sánh đơn trị liệu bicalutamid 150 mg với cắt tinh hoàn (chủ yếu dưới dạng nội khoa bằng thuốc Zoladex) trên bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến tiến triển tại chỗ cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa trên tỷ lệ sống còn toàn bộ giữa bệnh nhân điều trị với bicalutamid và bệnh nhân cắt tinh hoàn (Tỷ số nguy cơ = 1,05 [CI 0,81-1,36]). Tuy nhiên, sự tương đương giữa hai phương pháp điều trị này chưa thể kết luận có ý nghĩa về mặt thống kê.
Trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh cho thấy Zoladex cải thiện sống còn không bệnh và sống còn toàn bộ khi dùng điều trị bổ trợ sau xạ trị ở bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến tại chỗ có nguy cơ cao (T1-T2 và PSA ít nhất 10 ng/mL hoặc điểm Gleason ít nhất 7), hoặc tiến triển tại chỗ (T3-T4). Thời gian điều trị bổ trợ tối ưu vẫn chưa được xác định, có một thử nghiệm lâm sàng so sánh cho thấy điều trị bổ trợ bằng Zoladex trong 3 năm mang lại cải thiện sống còn có ý nghĩa so với xạ trị đơn thuần. Điều trị tân bổ trợ bằng Zoladex trước khi xạ trị cho thấy cải thiện sống còn không bệnh ở bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến tại chỗ có nguy cơ cao hoặc tiến triển tại chỗ.
Sau khi phẫu thuật cắt tiền liệt tuyến, ở bệnh nhân có u tiền liệt tuyến lan rộng, điều trị bổ trợ bằng Zoladex có thể cải thiện thời gian sống còn không bệnh, nhưng không cải thiện có ý nghĩa sống còn toàn bộ ngoại trừ những bệnh nhân có bằng chứng di căn hạch tại thời điểm phẫu thuật. Bệnh nhân có bệnh tiến triển tại chỗ (phân giai đoạn theo giải phẫu bệnh) cần có thêm các yếu tố nguy cơ như PSA ít nhất 10 ng/mL hoặc điểm Gleason ít nhất 7 trước khi xem xét điều trị bổ trợ bằng Zoladex. Không có bằng chứng cho thấy việc dùng Zoladex tân bổ trợ trước khi phẫu thuật cắt bỏ tiền liệt tuyến tận gốc có cải thiện về hiệu quả lâm sàng.
Ung thư vú tiền mãn kinh
Zoladex 3,6 mg
Ở nữ giới, nồng độ oestradiol huyết thanh được giảm xuống vào khoảng 21 ngày sau liều đầu và khi điều trị liên tục mỗi 28 ngày, nồng độ oestradiol bị ức chế ở mức tương đương ở phụ nữ mãn kinh. Sự giảm nồng độ này liên quan đến đáp ứng điều trị ung thư vú tiến xa phụ thuộc hormon, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung và giảm sự phát triển noãn nang trong buồng trứng. Nó sẽ làm giảm độ dày nội mạc tử cung và dẫn đến vô kinh ở phần lớn bệnh nhân được điều trị.
Trong khi điều trị bằng chất có cấu trúc tương tự LHRH, bệnh nhân có thể bị tắt kinh. Một số hiếm trường hợp bệnh nhân không có kinh trở lại sau khi ngưng điều trị.
Ở phụ nữ thiếu máu do u xơ tử cung, Zoladex phối hợp với sắt gây vô kinh và cải thiện nồng độ haemoglobin và các tham số huyết học có liên quan. Sự phối hợp này làm cho nồng độ haemoglobin trung bình cao hơn 1 g/dL so với đơn trị liệu bằng sắt.
Zoladex 10,8 mg
Sau khi tiêm dưới da thuốc Zoladex 10,8 mg trên bệnh nhân tiền mãn kinh bị ung thư vú, nồng độ E2 trong huyết thanh giảm xuống dưới mức giới hạn trên của khoảng nồng độ được xem như tình trạng sau mãn kinh, đạt được trước tuần 4. Dùng thuốc liên tục mỗi 12 tuần sẽ duy trì nồng độ E2 huyết thanh trong khoảng nồng độ giới hạn khi mãn kinh. Ngoài ra, mặc dù mỗi cá thể có thời gian điều trị và mức độ bệnh khác nhau, xuất huyết âm đạo có thể ghi nhận ở giai đoạn đầu điều trị. Xuất huyết này có thể do nồng độ estrogen giảm và sẽ tự hết một khi nồng độ estrogen ổn định ở mức thấp.
Hiệu quả
1) Nghiên cứu pha 2 trên bệnh nhân Nhật Bản
So sánh tiêu chí sống còn không bệnh giữa Zoladex 10,8 mg sau khi tiêm dưới da mỗi 12 tuần với Zoladex 3,6 mg; như là liệu pháp bổ trợ sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú triệt căn trên bệnh nhân ung thư vú tiền mãn kinh có thụ thể ER dương tính, cả hai liệu pháp đều kết hợp với tamoxifen citrate (thời gian điều trị 96 tuần). Quan sát thấy có 4 (4,7%) biến cố và 1 (1,2%) biến cố tương ứng với nhóm Zoladex 10,8 mg và nhóm Zoladex 3,6 mg, với trung vị (tối thiểu, tối đa) sống còn không bệnh là 675,0 ngày (142 ngày, 687 ngày) và 675,5 ngày (160 ngày, 685 ngày) tương ứng với nhóm Zoladex 10,8 mg và nhóm Zoladex 3,6 mg.
2) Nghiên cứu pha 3 trên bệnh nhân Châu Á
So sánh an toàn và hiệu quả giữa Zoladex 10,8 mg sau khi tiêm dưới da mỗi 12 tuần, với Zoladex 3,6 mg trên phụ nữ tiền mãn kinh bị ung thư vú tiến xa/tái phát có thụ thể ER dương tính, cả hai liệu pháp đều kết hợp với tamoxifen citrate (thời gian điều trị 24 tuần). Tiêu chí chính là thời gian sống bệnh không tiến triển (% PFS) tại Tuần 24, đạt 67/109 (61,5%) ở nhóm Zoladex 10,8 mg và 68/113 (60,2%) ở nhóm Zoladex 3,6 mg với sự khác biệt [95% CI]: 1,29% [-11,40 - 13,90], đạt tiêu chí so sánh không kém hơn được xác định trước.
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Đăng nhập
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Đăng nhập